Phân loại đường rò là gì? Các công bố khoa học về Phân loại đường rò

Đường rò (còn được gọi là đường ray) là hạng mục cơ sở hạ tầng gồm hệ thống đường và đường sắt cung cấp sự kết nối giữa các đô thị, các khu vực công nghiệp, vận...

Đường rò (còn được gọi là đường ray) là hạng mục cơ sở hạ tầng gồm hệ thống đường và đường sắt cung cấp sự kết nối giữa các đô thị, các khu vực công nghiệp, vận chuyển hàng hóa và người dân. Phân loại đường rò thường dựa trên các yếu tố như mục đích sử dụng, tốc độ phương tiện chạy trên đường, công nghệ sử dụng, quy mô và quản lý. Một số phân loại phổ biến của đường rò bao gồm:

1. Đường sắt: Bao gồm đường ray cho tàu hỏa và hệ thống đường sắt đô thị (metro, tram, đường sắt nhanh). Đường sắt thường được xây dựng riêng biệt và chạy trên đường ray nhằm đảm bảo tính an toàn và tới tấp tiện đi lại.

2. Đường bộ: Bao gồm đường đô thị, đường quốc lộ, đường xuyên quốc gia và các loại đường phố khác. Đường bộ phục vụ cho phương tiện giao thông đường lục như ô tô, xe máy, xe đạp và người đi bộ.

3. Đường nước: Đường rò nước gồm các con đường nước cấp nhiều như sông, kênh, mương, cống và các hệ thống đường thủy khác dùng để vận chuyển hàng hóa và người dân bằng tàu thủy.

4. Đường hàng không: Trên không trung, có hệ thống đường hàng không bao gồm các đường băng, sân bay và không gian không quân để phục vụ cho việc cất cánh và hạ cánh của máy bay.
Dưới đây là các phân loại chi tiết hơn về đường rò:

1. Đường ray:
- Đường sắt chủ lực: Là hệ thống đường ray có mục đích chính để vận chuyển hàng hóa và người dân. Bao gồm đường sắt dài hạn và đường sắt ngắn hạn (các đường sắt nông thôn, công nghiệp).
- Đường sắt đô thị: Bao gồm các hệ thống đường sắt đô thị như metro (hệ thống đường sắt đô thị ngầm), tram (đường sắt đô thị trên mặt đất), và đường sắt nhanh (hệ thống đường sắt gắn liền với các đô thị lớn).

2. Đường bộ:
- Đường trong thành phố: Bao gồm các loại đường phục vụ cho lưu thông trong nội thành của một thành phố như đường phố, đường cao tốc đô thị, con đường nằm trên đập, và con đường nông thôn.
- Đường giữa các thành phố: Bao gồm các loại đường quốc lộ, đường cao tốc, đường xuyên quốc gia, và đường huyết mạch liên tỉnh/phố.

3. Đường nước:
- Sông và kênh: Đây là các dòng sông và kênh dẫn nước tự nhiên hoặc được tạo ra bởi con người để vận chuyển hàng hóa và người dân.
- Kênh đào: Các kênh đào là hệ thống đường nước được xây dựng để nối các khu vực không có sự kết nối tự nhiên bằng các dòng sông. Chúng thường được sử dụng để vận chuyển hàng hóa và có thể dùng cho du lịch và giải trí.

4. Đường hàng không:
- Đường băng và sân bay: Đường băng là nơi máy bay cất cánh và hạ cánh. Sân bay là cơ sở hạ tầng và hệ thống cung cấp dịch vụ để vận hành các hoạt động hàng không.
- Không gian không quân: Là không gian không quân được sử dụng để vận chuyển hàng hóa và người dân bằng máy bay, bao gồm cả chuyến bay dân dụng và chuyến bay quân sự.

Mỗi loại đường rò có mục đích và quy mô khác nhau, được xây dựng và quản lý theo các quy định và tiêu chuẩn riêng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phân loại đường rò":

Phân loại và Chẩn đoán phân biệt Bệnh Thận Đái Tháo Đường Dịch bởi AI
Journal of Diabetes Research - Tập 2017 - Trang 1-7 - 2017

Bệnh thận đái tháo đường (DN) là nguyên nhân chính gây bệnh thận giai đoạn cuối trên toàn thế giới, ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Bài đánh giá này tóm tắt những thay đổi mô học đặc trưng của DN và phân loại mô học Tervaert, phân loại DN thành bốn loại dựa trên tổn thương cầu thận, cùng với một hệ thống chấm điểm riêng cho tổn thương ống thận, mô kẽ và mạch máu. Với sự không đồng nhất của các tổn thương thận và cơ chế phức tạp gây ra bệnh thận đái tháo đường, phân loại Tervaert vừa có ý nghĩa vừa gây tranh cãi trong việc hướng dẫn chẩn đoán và tiên lượng. Ứng dụng và đánh giá sử dụng phân loại Tervaert cũng như các chỉ định cho sinh thiết thận được tóm tắt trong bài đánh giá này dựa trên các nghiên cứu gần đây. Trong khi đó, chẩn đoán phân biệt với một bệnh cầu thận nốt khác và tình huống mà một bệnh DN điển hình chồng chéo với một bệnh thận không phải đái tháo đường (NDRD) cũng được thảo luận và kết luận trong bài đánh giá này.

#Bệnh thận đái tháo đường #phân loại Tervaert #tổn thương cầu thận #chẩn đoán phân biệt #sinh thiết thận
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH VÀ VAI TRÒ CỘNG HƯỞNG TỪ TRONG CHẨN ĐOÁN RÒ HẬU MÔN
TÓM TẮTMục tiêu nghiên cứu: 1)Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của rò hậu môn; 2)Vai trò của cộng hưởng từ trong chẩn đoán rò hậu môn.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Nghiên cứu thực hiện trên 95 bệnh nhân được chẩn đoán rò hậu môn, được phẫu thuật tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 01/2014 đến tháng 9/2015. Các bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ trên máy chụp 1.5 Tesla và đối chiếu kết quả với phẫu thuật.Kết quả: Trong 95 bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ có 81 nam và 14 nữ. Các chuỗi xung CHT có khả năng phát hiện chính xác đường rò với tỷ lệ cao. Chuỗi xung T2W phát hiện được 94,7% số đường rò, chuỗi xung STIR là 95,7%và chuỗi xung T1W fat sat +Gado là 98,9%. Chẩn đoán cộng hưởng từ phù hợp với phẫu thuật trong phân loại đường rò chính với tỷ lệ là 84,2%, trong xác định vị trí lỗ trong là 96,6%, trong xác định sự lan rộng của tổn thương là 94%.Kết luận: Cộng hưởng từ là phương pháp có giá trị cao được sử dụng trong đánh giá rò hậu môn trước phẫu thuật (phân loại đường rò chính, xác định vị trí lỗ trong và các tổn thương lan rộng) với độ chính xác cao.
#Rò hậu môn #cộng hưởng từ #phân loại đường rò
Vai trò của cộng hưởng từ trước phẫu thuật trong chẩn đoán rò hậu môn
Nghiên cứu nhằm đánh giá vai trò của cộng hưởng từ (cộng hưởng từ) trong chẩn đoán rò hậu môn (rò hậu môn). Đối tượng gồm 57 bệnh nhân có rò hậu môn được chụp cộng hưởng từ và phẫu thuật (phẫu thuật), 55 nam và 2 nữ (27,5:1), tuổi trung bình 40,2 ± 12,2. Có 57 đường rò chính được tìm thấy trong mổ. Mức độ đồng thuận tốt và rất tốt giữa cộng hưởng từ và phẫu thuật trong phân loại đường rò chính, phát hiện ổ áp xe và đường rò phụ với Kappa lần lượt là 0,607 (0,52;0,695); 0,782 (0,648; 0,916); và 0,82 (0,75;0,89). Độ nhạy và độ đặc hiệu của cộng hưởng từ trong phát hiện lỗ trong là 85% và 66,7%, trong phát hiện áp - xe là 84,6% và 100%. Cả các xung T2W - TSE và T1 TSE - Dixon + Gado đều có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong phát hiện lỗ rò trong, ổ áp xe và đường rò phụ. Như vậy, cộng hưởng từ có độ phân giải mô mềm rất tốt để hiển thị bản đồ giải phẫu quanh hậu môn, đường rò chính và thứ phát với áp xe liên quan đến phức hợp cơ thắt, giúp cho các bác sĩ phẫu thuật đưa ra quyết định trước mổ.
#Rò hậu môn #cộng hưởng từ #phân loại đường rò.
NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA CHỤP CỘNG HƯỞNG TỪ TRONG CHẨN ĐOÁN RÒ HẬU MÔN HÌNH MÓNG NGỰA TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định mức độ phù hợp giữa chụp cộng hưởng từ (CHT) hậu môn trực tràng và phẫu thuật trong đánh giá lỗ trong và đường rò hậu môn hình móng ngựa. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Những bệnh nhân được chẩn đoán rò hậu môn hình móng ngựa bằng chụp cộng hưởng từ và phẫu thuật tại bệnh viện Việt Đức giai đoạn 2016-2019. Nghiên cứu mô tả có đối chứng. Kết quả: Qua nghiên cứu 56 bệnh nhân có 50 nam và 06 nữ. Chụp cộng hưởng từ phát hiện lỗ trong là 62.5% với độ nhạy là 100% và độ đặc hiệu là 100%. Tỷ lệ phù hợp với phẫu thuật trong phân loại đường rò chính là 93.3%. Tỷ lệ phù hợp chụp cộng hưởng từ trực tràng xác định vị trí lỗ trong so với phẫu thuật là 100%. Kết luận: Chụp cộng hưởng từ hậu môn trực tràng đã trở thành tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán rò hậu môn, đặc biệt là rò hậu môn hình móng ngựa trước phẫu thuật (phân loại đường rò chính, xác định vị trí lỗ trong và các tổn thương lan rộng) với độ chính xác cao.
#rò hậu môn hình móng ngựa #chụp cộng hưởng từ hậu môn trực tràng #phân loại đường rò
Nấm nội sinh từ loài đại mạch hoang dã tăng năng suất cho giống đại mạch chịu stress dinh dưỡng Dịch bởi AI
Symbiosis - Tập 65 - Trang 1-7 - 2015
Việc lạm dụng phân bón hóa học trong canh tác đại mạch gây ra những chi phí kinh tế và tác động môi trường lớn, đồng thời có thể dẫn đến suy thoái hệ sinh thái và mất mát đa dạng sinh học. Các phương pháp giảm thiểu việc sử dụng phân hóa học thông qua điều trị bằng nấm nội sinh đã được chứng minh ở những nơi khác. Trong nghiên cứu này, chúng tôi cho thấy việc làm nhiễm với sáu loài nấm nội sinh từ hệ rễ được phân lập từ quần thể tự nhiên của Hordeum murinum ssp. murinum đã làm tăng năng suất hạt của một giống đại mạch thiếu dinh dưỡng lên tới 29%. Hơn nữa, chúng tôi cũng chỉ ra rằng việc làm nhiễm với các chủng này đã gây ra sự gia tăng lên đến 70% về trọng lượng khô của chồi trong giống đại mạch thiếu dinh dưỡng. Những sự gia tăng lớn nhất về năng suất hạt và trọng lượng khô của chồi đạt được dưới mức đầu vào dinh dưỡng thấp nhất. Một số chủng có thể là loài mới, và một chủng đặc biệt hiệu quả đã được chứng minh trước đó có khả năng ngăn chặn hoàn toàn các bệnh nhiễm trùng do hạt gây ra ở đại mạch. Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng các nấm nội sinh từ rễ mới có nguồn gốc từ một loài họ hàng hoang dã của đại mạch có thể giúp giảm thiểu đầu vào phân bón trong khi vẫn duy trì được năng suất chấp nhận được. Nếu tiềm năng này có thể được hiện thực hóa trong các cây trồng ở ruộng, nó có thể dẫn đến những phương pháp canh tác bền vững hơn, tiết kiệm chi phí kinh tế và thân thiện với môi trường, cùng với việc giảm thiểu việc sử dụng phân bón hóa học.
#đại mạch #nấm nội sinh #năng suất hạt #stress dinh dưỡng #phân bón hóa học
Dự đoán thành viên của lớp độ hòa tan và thẩm thấu: Phân loại BCS tạm thời của những loại thuốc uống hàng đầu thế giới Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 11 - Trang 740-746 - 2009
Hệ thống Phân loại Sinh dược (BCS) phân loại các loại thuốc thành một trong bốn lớp sinh dược dựa trên đặc điểm độ hòa tan trong nước và khả năng thẩm thấu qua màng và cho phép dự đoán một cách tổng quát bước giới hạn tốc độ trong quá trình hấp thụ qua đường tiêu hóa sau khi dùng thuốc đường uống. Kể từ khi được giới thiệu vào năm 1995, BCS đã tạo ra tác động đáng kể trong lĩnh vực khoa học dược phẩm toàn cầu, trong việc phát hiện thuốc, phát triển và quy định, và việc xác thực/thảo luận/mở rộng BCS liên tục được công bố trong tài liệu. BCS đã được các cơ quan quản lý thuốc trên toàn thế giới áp dụng hiệu quả để thiết lập tiêu chuẩn sinh khả dụng/sinh tương đương cho việc phê duyệt sản phẩm thuốc uống giải phóng tức thì (IR). Trong bài đánh giá này, chúng tôi mô tả khung khái niệm khoa học của BCS và tác động đến thực tiễn quy định các sản phẩm thuốc uống và xem xét phân loại BCS tạm thời của những loại thuốc hàng đầu trên thị trường toàn cầu. Hệ thống Phân loại Phân phối Thuốc Sinh dược và mối liên hệ của nó với BCS cũng được thảo luận. Một phát hiện đáng chú ý của phân loại BCS tạm thời là hiệu suất lâm sàng của đa số các sản phẩm thuốc uống IR được phê duyệt thiết yếu cho sức khỏe con người có thể được đảm bảo thông qua một bài kiểm tra độ tan trong ống nghiệm, thay vì qua các nghiên cứu thực nghiệm trên người sống.
#Hệ thống Phân loại Sinh dược #BCS #độ hòa tan #khả năng thẩm thấu #thuốc đường uống #quy định dược phẩm
Sự không ổn định của các tính chất sinh lý được sử dụng làm tiêu chí trong phân loại nấm men Dịch bởi AI
Archiv für Mikrobiologie - Tập 55 - Trang 209-225 - 1966
Các giống nấm men trong các văn hóa lưu trữ đã nhận được khả năng lên men và tiêu thụ các loại đường khác nhau thường đại diện cho một quần thể hỗn hợp liên quan đến các đặc điểm này. Thông thường, không phát hiện ra sự mất khả năng thích nghi sau khi nuôi cấy trong môi trường glucose, cho thấy rằng các sự biến đổi là ổn định trong môi trường này. Các văn hóa khô đã hồi sinh trong môi trường glucose mang các đặc điểm ban đầu của các giống nấm. Khi các thuộc địa đơn tế bào của nhiều giống nấm không thể sử dụng loại đường tương ứng được nuôi trong môi trường lỏng chứa galactose, sucrose hoặc maltose, các tế bào lên men loại đường được cung cấp đã được tìm thấy trong các văn hóa. Sự thu nhận khả năng lên men maltose và sự thu nhận đồng thời khả năng sử dụng galactose và raffinose, sucrose và raffinose, maltose và sucrose, hoặc maltose, sucrose và α-methyl-d-glucoside đã được quan sát. Thông qua việc xác định theo các đặc điểm đã thu nhận, các loại nấm men liên quan phải được phân loại vào những loài khác với giống ban đầu.
#nấm men #lên men #phân loại #đặc điểm sinh lý #đường
Cocconeis vaiamanuensis sp. nov. (Bacillariophyceae) từ Raivavae (Nam Thái Bình Dương) và các loài liên quan: các đặc điểm siêu cấu trúc và nhận xét về chi Cocconeis Ehrenberg đa nguồn gốc Dịch bởi AI
Marine Biodiversity - Tập 51 - Trang 1-23 - 2021
Một loài tảo silic đơn bào thuộc nhóm monoraphid nhỏ với hình dạng hình trục-elliptic và các đầu raphe đơn giản đã được phát hiện tại Raivavae (Nam Thái Bình Dương). Đặc biệt, do cấu trúc stria khác nhau trên cả hai vỏ, taxa này được phân loại tại đây là Cocconeis. Loài mới này được tìm thấy trên bờ đá ngầm của lagune rạn san hô, dưới dạng một epiphyte trên lớp rong. Cocconeis vaiamanuensis sp. nov. có thể so sánh với một số loài monoraphid khác có hệ thống raphe đơn giản và hình dạng như que. Taxon mới này có các quá trình nhỏ ở rìa trên vỏ van xương (SV), như đã được báo cáo trước đó cho Cocconeis peltoides. Các quá trình như vậy cũng đã được quan sát trước đây ở Platessa và Psammothidium. Một phân tích cladistic dựa trên siêu cấu trúc cho thấy sự liên hệ giữa một số taxa gần nhau. Cocconeis của phần C. peltoides gần với Psammothidium, trong khi những Cocconeis khác không có quá trình gần hơn với Platessa và Achnanthidium. Một dòng Cocconeis cf. sigillata (SZCZCH1200) đã cho phép tái tạo hệ phả sinh học phân tử. Chữ ký phân tử của Cocconeis cf. sigillata gần với của Lemnicola hungarica. Cocconeis là một chi với các hình thái khác nhau và phức tạp có thể được chia thành các nhánh độc lập (chi). Các quá trình SV có thể là một đặc trưng vestigial gợi nhớ đến một trạng thái tổ tiên.
#Cocconeis #Bacillariophyceae #Raivavae #siêu cấu trúc #phân loại
Cạnh Tranh Tài Nguyên Giữa Các Loài - Tác Động Kết Hợp Của Bức Xạ và Hạn Chế Dinh Dưỡng Đối Với Hai Loài Xyanobacteria Filamentous Diazotrophic Dịch bởi AI
Microbial Ecology - Tập 63 - Trang 736-750 - 2011
Các vụ nở xyanobacteria trong biển Baltic chủ yếu bởi các xyanobacteria diazotrophic, bao gồm các loài có thể độc Aphanizomenon sp. và loài độc Nodularia spumigena. Sự kế thừa theo mùa với các đỉnh của Aphanizomenon sp., tiếp theo là các đỉnh của N. spumigena, đã được giải thích bởi các ngách sinh thái cụ thể của hai loài này. Trong một thí nghiệm ngoài trời ba yếu tố, chúng tôi đã kiểm tra xem điều kiện dinh dưỡng và bức xạ có thể ảnh hưởng tới phản ứng sinh lý và sinh hóa của N. spumigena và Aphanizomenon sp. trong sự hiện diện hoặc không có loài còn lại. Hai phương pháp dinh dưỡng là môi trường f/2 không có NO₃⁻ (−N) và môi trường f/2 không có PO₄³⁻ (−P), và hai phương pháp bức xạ ánh sáng là bức xạ quang hợp hoạt động >395 nm (PAR) và PAR + UV-A + UV-B >295 nm. Nghiên cứu cho thấy rằng Aphanizomenon sp. không bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự hiện diện của N. spumigena và rằng N. spumigena thích nghi tốt hơn với cả hai sự hạn chế N và P khi tương tác với bức xạ tử ngoại (UVR, 280–400 nm). Tại biển Baltic, những điều kiện vật lý này có thể tồn tại trong nước mặt vào mùa hè. Thú vị là, tỷ lệ tăng trưởng cụ thể của N. spumigena đã được kích thích bởi sự hiện diện của Aphanizomenon sp. Chúng tôi gợi ý rằng sự kế thừa theo mùa, với các đỉnh của Aphanizomenon sp. theo sau là các đỉnh của N. spumigena, là kết quả từ sở thích riêng của các loài về điều kiện môi trường và/hoặc kích thích từ Aphanizomenon sp. thay vì hiệu ứng allelopathic của N. spumigena. Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi, cộng với sự phân lớp mạnh hơn được dự đoán do các tác động của biến đổi khí hậu ở biển Baltic với nhiệt độ tăng và lượng mưa tăng cùng với tăng cường UV-B do mất ozone, phản ánh một kịch bản với sự thống trị tiếp tục của N. spumigena độc hại trong tương lai.
#cyanobacteria #Baltic Sea #Aphanizomenon sp. #Nodularia spumigena #bức xạ #dinh dưỡng #cạnh tranh tài nguyên
Phân loại, địa sinh học và sinh thái học của Benthic Ostracoda (Giáp xác) quý IV từ vùng nước sâu quanh cực của Emerald Basin (Nam Thái Bình Dương) và S Tasman Rise (Biển Tasman) Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 35 - Trang 1-119 - 2005
Benthic Ostracoda đã được thu thập từ 19 mẫu cốt lõi hộp trong chuyến khảo sát SO 136 của tàu nghiên cứu Đức R/V SONNE tại Biển Tasman và Nam Đại Dương (khu vực Tây Nam Thái Bình Dương). Nghiên cứu phân loại chi tiết trên hơn 10.000 mẫu vật thu được từ mười một mẫu cốt lõi hộp từ vùng nước sâu vòng cực của Emerald Basin (Nam Đại Dương) và S Tasman Rise (Biển Tasman) đã dẫn đến việc nhận diện được 34 chi và 63 loài, trong đó có 9 loài mới cho khoa học. Thêm vào đó, mười taxa phổ biến và đặc hữu quan trọng đã được nghiên cứu và minh hoạ lại từ mẫu vật điển hình tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên (Luân Đôn), Bộ sưu tập Vi mô địa chất Utrecht, Bảo tàng Senckenberg (Frankfurt) và Đại học Canterbury (New Zealand). Giá trị đồng vị oxy và carbon đã được đo trên các mẫu vật từ 17 mẫu từ Cao nguyên Campbell và S Tasman Rise. Đặc biệt, bốn chi ostracode podocopid đã được phân tích: Krithe sống trong vùng đáy và Fallacihowella, Poseidonamicus, và Bradleya sống ngoài đáy. Các chỉ số đồng vị ổn định cung cấp những thông tin hữu ích về các vi sinh cảnh, chế độ ăn và độ nhạy nhiệt độ của từng taxa. Thêm vào đó, tỷ lệ calcification khác nhau và các vi sinh cảnh khác nhau đã được khẳng định để giải thích chữ ký đồng vị khác nhau của cá thể trưởng thành và giống trẻ của Krithe. Các phân tích thống kê đã được thực hiện trên độ phong phú tương đối theo phần trăm của 73 loài đã xác định trong 19 mẫu trầm tích. Cả hai loại loài (R-mode) và mẫu (Q-mode) đã được nhóm lại bằng phân tích phân cụm và phân tích tương ứng không có xu hướng (DCA) sử dụng phần mềm PAST (phiên bản 0.94). Các phân tích phân cụm Q-mode một phần ủng hộ các quan sát của các tác giả trước đó rằng ngưỡng đặc biệt của ostracoda bị điều khiển bởi đặc trưng khối nước. Ngược lại, các phân tích tương ứng không có xu hướng Q- và R-mode chỉ ra rằng các mẫu phân bố phải bị các yếu tố ngoài đặc trưng khối nước chi phối. Bảy tập hợp đã được công nhận và các loài đặc trưng hoặc phong phú nhất được thảo luận về nhu cầu sinh thái của chúng. Địa hình đáy, loại trầm tích, hàm lượng CaCO3, và dòng chảy carbon hữu cơ tương tác với đặc trưng khối nước tạo ra một mạng lưới phức tạp của các gradient sinh thái. Trong mỗi tập hợp đã xác định, các ngưỡng riêng biệt của các loài không đồng nhất và thường thì dải gradient sinh thái của các loài phong phú nhất không bao gồm dải của các loài đặc trưng. Rất có thể, động lực của các loài đồng tồn tại xảy ra, có thể liên quan đến Ostracoda và các động vật đáy khác thuộc cùng nhóm dinh dưỡng.
#Ostracoda #phân loại #sinh thái #địa sinh học #Nam Đại Dương #Biển Tasman #mẫu cốt lõi hộp #động vật đáy
Tổng số: 11   
  • 1
  • 2